Số nguyên tố Mersenne – Là gì Wiki
Số nguyên tố Mersenne (thường viết tắt là số Mersen) là một số Mersenne[1] (số có dạng lũy thừa của 2 trừ đi 1: 2n − 1, một số định nghĩa yêu cầu lũy thừa (n) phải là số nguyên tố) và là một số nguyên tố: ví dụ 31 là số nguyên tố Mersenne vì 31 = 25 − 1, và 31 và 5 là số nguyên tố.
Điều kiện cần để số Mn nguyên tố là n là số nguyên tố, 24 -1 = 15 là hợp số vì 4 không là nguyên tố, nhưng suy đoán ngược lại không đúng: ví dụ số Mersenne 2047 = 211 − 1 không là nguyên tố vì nó chia hết cho 89 và 23, mặc dù số 11 là số nguyên tố.
Hiện nay, các số nguyên tố lớn nhất được tìm thấy thường là số nguyên tố Mersenne.
Các số nguyên tố Mersenne có quan hệ chặt chẽ với các số hoàn thiện, nghĩa là các số bằng tổng các ước chân chính của nó. Trong lịch sử, việc nghiên cứu các số nguyên tố Mersenne đã từng bị thay đổi do các liên quan này; vào thế kỷ IV TCN, Euclid phát biểu rằng nếu M là số nguyên tố Mersenne thì M(M+1)/2 là số hoàn thiện. Vào thế kỷ XVIII, Leonhard Euler chứng minh rằng tất cả các số hoàn thiện chẵn đều có dạng này. Không một số hoàn thiện lẻ nào được biết, và người ta nghi ngờ rằng chúng không tồn tại.
Tìm các số nguyên tố Mersenne
Đẳng thức sau
- <math>2^{ab}-1=(2^a-1)cdot left(1+2^a+2^{2a}+2^{3a}+dots+2^{(b-1)a}right)</math>
cho biết rằng Mn có thể là số nguyên tố chỉ nếu chính n là số nguyên tố, điều đó làm giản lược bớt việc tìm các số nguyên tố Mersenne. Mệnh đề đảo, nói rằng Mn là số nguyên tố nếu n là số nguyên tố là sai. Số nhỏ nhất cho ví dụ này là 211-1 = 23×89, là hợp số.
Đã có một số thuật toán tối ưu hóa để tìm số nguyên tố Mersenne, do đó hiện nay người ta đã biết các số nguyên tố Mersenne rất lớn.
Bốn số nguyên tố Mersenne đầu tiên <math>M_2=3</math>, <math>M_3=7</math>, <math>M_5=31</math> và <math>M_7=127</math> đã được biết từ cổ xưa. Số thứ năm, <math>M_{13}=8191</math>, được tìm thấy vào trước năm 1461; hai số tiếp theo (<math>M_{17}</math> và <math>M_{19}</math>) tìm thấy bởi Cataldi vào năm 1588, đồng thời ông còn dự đoán cho các số mũ 23 (đã bị Fermat bác bỏ), 29 (đã bị Fermat bác bỏ), 37(đã bị Euler bác bỏ). Sau hơn một thế kỷ <math>M_{31}</math> được kiểm tra bởi Euler vào năm 1750 bằng Lý thuyết chỉ số. Số tiếp theo (trong lịch sử, không theo thứ tự số) là <math>M_{127}</math>, do Lucas tìm thấy vào năm 1876, sau đó <math>M_{61}</math> do Pervushin tìm vào năm 1883. Hai số nữa (<math>M_{89}</math> và <math>M_{107}</math>) được tìm thấy vào thế kỷ XX, bởi Powers vào năm 1911 và 1914.
Từ thế kỷ XVII, các số này được mang tên nhà toán học Pháp Marin Mersenne, người đã chứng minh và dự đoán một loạt các số nguyên tố Mersenne với các số mũ: 2, 3, 5, 7, 13, 17, 31, 67, 127, 257. Danh sách của ông đã mắc một số sai lầm, như bao gồm cả M67 (được Kohler chứng minh là hợp số vào năm 1901, cụ thể: <math>2^{67} – 1 = 193.707.721 times 761.838.257.287</math>), M257 (được chứng minh là hợp số vào năm 1952), và bị bỏ quên M61, M89 và M107.
Phương pháp tốt nhất để kiểm tra tính nguyên tố của các số Mersenne được dựa vào sự tính toán một dãy tuần hoàn, được phát biểu đầu tiên bởi Lucas năm 1878 và chứng minh bởi Lehmer vào những năm 1930. Hiện nay nó được gọi là kiểm tra Lucas-Lehmer với số Mersenne. Đặc biệt, ta có thể chứng minh rằng (với <math>n>2</math>) <math>M_n=2^n-1</math> là số nguyên tố nếu và chỉ nếu Mn chia hết cho Sn-2, trong đó <math>S_0=4</math> và với <math>k>0</math>, <math>S_k=S_{k-1}^2-2</math>.
[[Tập tin:primes.png|nhỏ|phải|360px|Đồ thị biểu diễn số các chữ số của số nguyên tố Mersenne lớn nhất đã biết theo từng năm của kỷ nguyên điện tử. Chú ý rằng trục tung độ đã được logarit hóa.]]
Việc tìm các số nguyên tố Mersenne thực sự được cách mạng bởi các máy tính điện tử số. Thành công đầu tiên của tư tưởng này thuộc về số nguyên tố Mersenne, M521, nhờ nỗ lực khéo léo vào lúc 10:00 P.M. ngày 30-1, 1952 khi sử dụng máy tính tự động Western U.S. National Bureau of Standards (SWAC) tại Institute for Numerical Analysis thuộc Đại học California tại Los Angeles, dưới sự điều khiển trực tiếp của Lehmer, sử dụng chương trình viết và chạy bởi GS R.M. Robinson. Nó là số nguyên tố Mersenne đầu tiên tìm thấy sau 38 năm; số tiếp theo, M607, đã được tìm thấy do computer này sau gần hai giờ chạy máy. Ba số tiếp theo — M1279, M2203, M2281 — đã được tìm thấy với cùng chương trình trên sau nhiều tháng nữa. M4253 là số nguyên tố Mersenne đầu tiên là số nguyên tố siêu lớn (trên 1000 chữ số thập phân – titanic), và M44497 là số nguyên tố đẩu tiên có trên 10.000 chữ số thập phân (gigantic).
Đến tháng 9 năm 2008, chỉ mới biết 46 số nguyên tố Mersenne; số lớn nhất đã biết là số (243 112 609 − 1). Cũng như nhiều số nguyên tố Mersenne trước đó, nó được tìm ra nhờ dự án tính toán phân tán trên Internet, được biết với tên gọi Tìm kiếm số nguyên tố Mersenne khổng lồ trên Internet (Great Internet Mersenne Prime Search – GIMPS).
Các định lý về số nguyên tố Mersenne
- <math>c^n-d^n=(c-d)sum_{k=0}^{n-1} c^kd^{n-1-k}</math>,
hay
- <math>(2^a-1)cdot left(1+2^a+2^{2a}+2^{3a}+dots+2^{(b-1)a}right)=2^{ab}-1</math>
nhờ đặt <math>c=2^a</math>, <math>d=1</math>, và <math>n=b</math>
Chứng minh:
- <math>(a-b)sum_{k=0}^{n-1}a^kb^{n-1-k}</math>
- <math>=sum_{k=0}^{n-1}a^{k+1}b^{n-1-k}-sum_{k=0}^{n-1}a^kb^{n-k}</math>
- <math>=a^n+sum_{k=1}^{n-1}a^kb^{n-k}-sum_{k=1}^{n-1}a^kb^{n-k}-b^n</math>
- <math>=a^n-b^n</math>
- Nếu <math>2^n-1</math> là số nguyên tố, thì <math>n</math> là số nguyên tố.
Chứng minh
Do
- <math>(2^a-1)cdot left(1+2^a+2^{2a}+2^{3a}+dots+2^{(b-1)a}right)=2^{ab}-1</math>
Nếu <math>n</math> không phải là nguyên tố, hoặc <math>n=ab</math> trong đó <math>1 < a, b < n</math>. Do đó, <math>2^a-1</math> là ước của <math>2^n-1</math>, hoặc <math>2^n-1</math> không là nguyên tố.
- Với mọi số nguyên tố p lẻ, ước nguyên tố của Mp luôn có dạng <math>2kp + 1 equiv pm 1 pmod{8}</math>.
Chứng minh
Gọi q là ước nguyên tố của 2p – 1 ta có:
- <math>2^p equiv 1 pmod{q}</math>.
Theo định lý nhỏ Fermat ta có:
- <math>2^{q-1} equiv 1 pmod{q}</math>.
Từ đó ta có q là ước chung của 2p – 1 và 2q – 1 – 1, hay là <math>gcd (2^p – 1,2^{q – 1} – 1) > 1</math>(*).
Ta xét bổ đề sau: Nếu a và b là hai số nguyên dương phân biệt thì <math>gcd (2^a – 1,2^b – 1) = 2^{gcd (a,b)} – 1</math>.
Thật vậy, giả sử <math>gcd (a,b) = d</math>, suy ra a = k1d và b = k2d.
Suy ra:
- <math>2^a – 1 = 2^{k_1d} – 1 = left (2^d – 1 right) times A</math>
- <math>2^b – 1 = 2^{k_2d} – 1 = left (2^d – 1 right) times B</math>
Tức là bổ đề ta đã đặt ra là đúng.
Từ bổ đề suy ra: <math>gcd (2^p – 1,2^{q – 1} – 1) = 2^{gcd (p,q – 1)} – 1</math>.
Giả sử <math>gcd (p,q – 1) = 1</math> thì suy ra được <math>gcd (2^p – 1,2^{q – 1} – 1) = 1</math>, mâu thuẫn với (*). Do đó ta phải có <math>gcd (p,q – 1) > 1</math>. Do p là số nguyên tố nên <math>gcd (p,q – 1) = p</math> hay q – 1 = bp.
Do q là ước của Mp lẻ nên q lẻ, suy ra b = 2k hay q = 2kp + 1.
Do 2p ≡ 1 (mod q) nên 2p + 1 ≡ 2 (mod q), suy ra <math>2^{frac {p + 1}{2}}</math> là căn bậc hai của 2 theo modulo (môđun) q, tức nó là nghiệm của:
- <math>x^2 equiv 2 pmod{q}</math>.
Theo luật tương hỗ bậc hai:
- <math>q equiv pm 1 pmod{8}</math>.
Danh sách các số nguyên tố Mersenne đã biết (từ cổ đại tới tháng 2 năm 2013)
Template:OEIS:
- Chưa có ai khẳng định được có số nguyên tố Mersenne nào nằm giữa số thứ 40 (M20 996 011) và 48 (M57 885 161) trong bảng mà chưa được phát hiện hay không, do đó thứ tự các số đó là tạm thời. Một ví dụ là số thứ 29 được phát hiện ra sau số thứ 30 và 31, số thứ 46 cũng được công bố trước số 45 chỉ có 2 tuần.
- Để hình dung độ lớn của số nguyên tố lớn nhất được tìm thấy (số thứ 48), ta cần có 4 647 trang giấy A4 để biểu diễn số đó với các chữ số trong hệ cơ số 10, 75 chữ số một dòng và 50 dòng một trang. Nếu dùng giấy định lượng 70g/m², sẽ cần hơn 10 kg giấy (2.324 tờ) để in thành tập dày khoảng 20 cm.
- Lấy 2 lũy thừa n trừ 1 nhân với số tương ứng thì sẽ cho ra số hoàn hảo.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Template:Thể loại Commons
Template:Chủ đề
Template:Phân loại các số nguyên tố
Thể loại:Số nguyên tố
M
Thể loại:Vấn đề chưa được giải quyết trong toán học
Thể loại:Chuỗi số nguyên
Thể loại:Bậc độ lớn