Vua Đinh Tiên Hoàng gặp pháp sư Văn Du Tường, Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư bèn dạy cho nghề tạp kỹ để làm trò vui, khiến cho thần Xương Cuồng đến xem, dùng kiếm tiên mà tru diệt trừ hậu họa.
Quỷ Xương Cuồng hay còn gọi là Mộc tinh là yêu quái trong
truyền thuyết từ thượng cổ của người Việt từ thời nước Xích Quỷ của vua Kinh
Dương Vương. Đây là một trong số những yêu quái hùng mạnh bậc nhất còn được lưu
truyền trong sử sách và huyền kỳ của nước Nam, tương truyền Xương Cuồng là hóa
thân của một yêu hổ thành tinh.
Nguồn gốc câu chuyện
Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây
Chiên đàn cao hơn ngàn nhẫn, cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn dặm,
có chim hạc đến đậu nên đất chỗ đó gọi là Bạch Hạc (thuộc vùng Tam Giang – Bạch
Hạc ngày nay). Cây trải qua mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường
thay hình đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật.
Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu
nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân
phải lập đền thờ hàng năm thường tới 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống
tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng.
Lạc Long Quân dùng Long Châu phong ấn Xương Cuồng, nhưng vẫn
không ngăn được sức mạnh của nó. Đời Hán, có Thái thú là Nhâm Ngao muốn bỏ lệ
cúng tế người, Xương Cuồng tức giận mà vật chết.
Lĩnh Nam Chích Quái
Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây
chiên đàn cao hơn ngàn trượng cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn
rậm. Có chim hạc bay đến đậu nên đất chỗ đó gọi là đất Bạch Hạc. Cây trải qua
hàng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay đổi hình dạng, rất
dũng mãnh, có thể giết người hại vật.
Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu
nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân
phải lập đền thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống
tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng.
Biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, dân man Bà Lô
(nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống ở khe núi tới tiến,
không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan
lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu,
vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn thận.
Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Văn Du Tường vốn người
phương bắc, đức hạnh thanh cao, đã từng đi qua nhiều nước, biết được tiếng các
dân man, học được thuật làm nanh vàng và răng đồng, năm hơn 80 tuổi sang nước
Nam ta. Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư bèn dạy cho nghề tạp kỹ để
làm trò vui cho thần Xương Cuồng xem mà giết y.

Đức thánh Khổng Lộ, còn được gọi là Pháp sư Văn Du Tường
Đoàn tạp kỹ này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng
Đát, Thượng Toái, Thượng Câu. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng lầu Phi Vân cao 20
thước, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây chão dài 136 thước, đường
kính rộng 2 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác
lên cây.
Thượng Kỵ đứng lên trên dây mà chạy nhanh 3,4 lần, đi đi lại
lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can
dài 150 thước, có một chỗ mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai người đi
trên dây, gặp nhau ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì
Thượng Đát lấy một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây
cao 17 thước 3 tấc, Đát đứng ở trên nhảy 2, ba cái, tiến tiến lùi lùi điên đảo.
Khi thì Thượng Toái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt
cá, dài 5 thước, tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì Thượng
Câu vỗ tay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi vỗ bụng, tiến
lùi lên xuống, hoặc cưỡi ngựa bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật ở dưới đất mà
không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngả mình nằm ngửa lấy thân đỡ một cái gậy dài rồi
cho đứa trẻ trèo lên mà không rớt xuống. Khi thì cho bọn ca hát gõ trống khua
chiêng, ca múa rầm rĩ. Lại giết súc vật mà tế.
Thần Xương Cuồng tới, thấy thế bèn đến xem, pháp sư đọc mật
chú rồi lấy kiếm mà chém. Thần Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết, không thể
trở lại thành yêu nữa. Lệ tiến lễ hàng năm bèn bỏ, dân lại sống yên lành như
xưa.
Nhận định về thần Xương Cuồng
Trong bài nghiên cứu “Cọp, từ Mộc tinh đến ông Ba
Mươi” của tác giả Đặng Tiến viết năm 2010, đã chỉ ra Xương Cuồng được nhắc
trong truyện Mộc tinh chính là thần Hổ, cũng là Ông Ba Mươi theo dân gian thường
gọi.
Bên cạnh đó, trong tác phẩm kể trên có giải thích ý nghĩa của
tên gọi “Xương Cuồng”. Xương Cuồng có nghĩa là hành động một cách bạo ngược,
tàn ác, không thể trấn áp được. Có thể suy ra, Xương Cuồng vốn dĩ không phải một
tên gọi, mà là tính chất.
Phạm Đình Hổ từng viết về thần Hổ trong tác phẩm Vũ trung tuỳ
bút: “Làng Ngọc Cục ở huyện ta, khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người
làm việc hy sinh để cúng (…) Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng
vậy. Từ năm Canh Thân 1800 trở về sau thói ấy mới bỏ.”
Từ nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ, cho thấy:
Trong Huyền học (Kỳ môn độn giáp) có vị hung thần là Bạch Hổ
Xương Cuồng (白虎猖狂)
có nghĩa là hổ trắng gầm rú.
Còn có câu: “Xương kì nhất ngộ hổ sinh phong” (昌期一遇虎生風/Đề
kiếm 題劍)
có nghĩa là “Khi gặp đời thịnh thì hổ sinh ra gió”.
Trong một số tín ngưỡng dân gian, loài hổ được xem như hoá
thân thành tinh của cây cổ thụ to lớn nhất của khu rừng – nơi loài hổ thường chọn
để rình bắt mồi. Là loài thú uy dũng, mạnh mẽ, mà được xưng tụng là “Chúa sơn
lâm”.
Vì sao gọi con hổ là Ông Ba Mươi và cúng thần Xương Cuồng
vào ngày Ba mươi tháng Chạp? Trong thập nhị địa chi, chi thứ ba là chi Dần (Tý,
Sửu, Dần). Chi Dần là con Hổ. Trong thập can, số 10 là số Kỷ-còn gọi là Cả hay
Kỵ. Vậy, ngày Ba Mươi nghĩa là Kỵ Dần–ngày cúng Hổ.
“Chiên đàn” vốn là loài cây được nhắc đến trong nhiều
truyện cổ, song thường gắn bó mật thiết đến yêu quái. Phép phiên âm của Chiên
đàn là Chàn hay Chằn. Chiên đàn chính là tên viết âm Nôm của từ Chằn. Chằn tinh
vốn chỉ loài yêu quái nói chung. Vậy, gọi cây Chiên đàn tương đương với cách gọi
Mộc tinh.
Theo báo Phú Thọ, trong cuốn Thiên Nam vân lục liệt truyện
(tân biên) của Nguyễn Hãng, hiệu Nại Hiên tiên sinh, quê làng Dòng, viết vào thời
Lê Thánh Tông có truyện Quỷ Xương Cuồng, phần đầu truyện giống như Truyện Mộc
tinh.
Phần tiếp theo kể rằng: “Đến thời Đinh Tiên Hoàng, nhà vua mời
một đạo sỹ tên là Vân Du dùng thuật lạ mới giết được con quỷ điên này. Thuật lạ
bao gồm: Kỵ (cưỡi), can (xào), điếu (câu), hiểm (vỗ tay) thường tổ chức vào dịp
cuối năm để dâng hiến các thần, cũng có thể dùng để lừa quỷ điên. Kỵ là cưỡi ngựa
phi chạy, lựa mình nhặt lấy vật rơi dưới đất. Can là nằm ngửa dùng chân nâng gậy
để người khác quất vào đầu gậy mà không đổ. Điếu là làm cầu phi vân cao 12 thước,
bện đay làm chão dài 26 thước, buộc hai đầu chôn dưới đất mắc lên cây mà đi lại,
chạy nhảy, treo mình, cúi ngửa trên cây mà không ngã xuống. Hiểm là vỗ tay nhảy
nhót, hoan hô, lăn đi lật lại, tiến lui lên xuống.
Những trò chơi này thường có chuông trống náo loạn, có ngâm
vịnh, nhảy múa góp vui. Trong lúc bày cuộc vui náo nhiệt, thờ phụng, quỷ điên
vui vẻ hưởng lễ, không để ý đến việc khác, Vân Du lừa lúc nó không đề phòng, đọc
câu quyết thần bí rồi dùng kiếm chém chết. Bộ hạ của quỷ điên chạy tan tác cả.
Từ đó yêu khí hết, dân chúng yên ổn làm ăn.”

Các Thánh tượng đầu gỗ của chùa Keo Hành Thiện.
Vị pháp sư diệt thần Xương Cuồng được nhắc đến trong đoạn
trích trên tên là Vân Du, trong Lĩnh Nam chích quái gọi tên Văn Du Tường. Pháp
sư Văn Du Tường chính là Dương Không Lộ. Dương là Tường, Vân Du có nghĩa tương
đương với Không Lộ. Đoàn tạp kỹ của pháp sư Không Lộ gồm bốn người, với tên gọi
theo các tiết mục mà họ trình diễn (cưỡi, sào, câu, vỗ tay).
Trong Lĩnh Nam chích quái thì những người này tên là Thượng
Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm, Thượng Đát, Thượng Toái, Thượng Câu, diễn các trò
nhảy, lăn, phi, vỗ tay, hò hét… Vết tích của sáu vị này là các Thánh Tượng đầu
gỗ của trò rối Ôi Lỗi, còn được lưu diễn đến ngày nay tại các di tích thờ Không
Lộ thiền sư.
Nay với nhận định thần Xương Cuồng là thần Hổ thì có thể thấy
việc Không Lộ thiền sư chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông hóa hổ chính là thành
tích diệt thần Xương Cuồng của vị đại pháp sư này.
Nhận định này thêm một lần nữa xác định người được cho rằng
đã diệt thần Xương Cuồng thời Đinh–Lý là Không Lộ thiền sư. Ngoài ra, theo bài:
Cọp, từ Mộc tinh đến Ông Ba mươi thì Lĩnh Nam Chích Quái thuật chuyện Nhâm Ngao
bị thần Xương Cuồng tức giận vật chết.
So với chính sử, Đại Việt sử ký Toàn Thư, phần ngoại kỷ, kỷ
nhà Thục, kể rằng Nhâm Ngao là tướng nhà Tần cùng với Triệu Đà đem quân tấn
công nước Âu Lạc của An Dương Vương. Năm 210 trước Tây Lịch, Triệu Đà xâm lấn bằng
đường bộ, bị thua. Nhâm Ngao đem thủy quân đóng ở sông Tiểu Giang, tức sông
Thiên Đức, hai năm sau bệnh nặng, giao quyền lại cho Triệu Đà và khuyên Đà tự lập,
rồi chết. Lời lẽ khác nhau, nhưng đều hướng đến một ý giống nhau, chính do bàn
tay của Thổ thần đất Nam, của Vạn Quỷ chi Vương, chính là Quỷ Thánh Xương Cuồng.
Vua Lý hóa hổ
Việc chữa căn bệnh “hóa hổ” lạ lùng của vua Lý Thần Tông của
sư Minh Không đến nay vẫn là câu chuyện mang đậm chất huyền thoại và gây ra nhiều
tranh cãi. Một truyền thuyết nói rằng, khi Minh Không và Từ Đạo Hạnh học đạo từ
Tây Thiên trở về, giữa đường, Đạo Hạnh muốn thử tài của Minh Không liền vượt
trước, hóa thành một con hổ phục trong bụi, rồi chồm ra dọa Minh Không.
Minh Không đã biết trước, cứ ung dung nói với con hổ: “Đạo
huynh đấy à? Tưởng đạo huynh làm gì ích lợi cho đời, lại đi làm thú dữ hại người
đấy ư? Đạo huynh muốn thế, kiếp sau sẽ được làm mà”
Từ Đạo Hạnh biết mình còn kém Nguyễn Minh Không, hiện lại
nguyên hình, lạy tạ và khẩn khoản nói: “Ngu đệ không tự biết mình, trót làm điều
xúc phạm, xin đạo huynh tha thứ. Quả báo sau này có sa vào nghiệp chướng ấy,
xin đạo huynh ra tay cứu giúp”.
Quả báo mà Từ Đạo Hạnh nói đến sau này chính là việc ông phải
đầu thai chuyển kiếp thành vua Lý Thần Tông và mắc phải căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ
mà không danh ý nào có thể chữa được. Tuy nhiên, nhiều người cũng nói rằng,
chính sự nhầm lẫn giữa sư Không Lộ và Minh Không đã dẫn đến câu chuyện nói
trên. Người bị Đạo Hạnh hóa thành hổ dọa trên đường từ Thiên Trúc trở về chính
là Giác Hải và Không Lộ.
Quốc Sư trị hóa hổ
Chuyện kể rằng, khi ba người (Không Lộ, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh)
ngồi thuyền đến Thiên Trúc tìm thầy học Đạo, Từ Đạo Hạnh ở lại giữ thuyền, còn
Giác Hải và Không Lộ lên bờ học phép. Sau khi học được phép thiêng, Giác Hải và
Không Lộ đã bỏ về trước.
Từ Đạo Hạnh ngồi giữ thuyền 3 ngày mà không thấy tin tức của
2 bạn đồng hành đâu, đúng lúc đó bỗng thấy một cụ già đi đến. Từ Đạo Hạnh vái
chào rồi hỏi: “Cụ có thấy 2 người lên học đạo đó không? Cụ già nói: “Hai người
đó đã học được phép thiêng của Ta và đã trở về nước rồi”.
Từ Đạo Hạnh bèn vái lậy và kể rõ cho bạ cụ biết mọi chuyện,
cụ già nghe nói bèn sai Từ Đạo Hạnh gánh 2 thùng nước về nhà, rồi dạy cho mọi
phép thiêng cùng phép rút đất chân truyền Đà-la-ni. Sau khi học xong phép
thiêng, Từ Đạo Hạnh tự hiềm vì 2 người bạn đã thất ước, bèn đọc thần chú khiến
2 người bạn đang đi đường đau bụng quá phải ngồi nghỉ.
Sau đó, Đạo Hạnh lại dùng phép rút đất vượt lên phía trước,
rồi hóa thành một con hổ núp trong bụi rậm đợi Giác Hải và Không Lộ đi qua mới
nhảy ra dọa. Sau đó, chính Đạo Hạnh đã nhờ Giác Hải và Không Lộ cứu mình tránh
khỏi nghiệp chướng sau này.
Không Lộ lúc ấy mới nói với Từ Đạo Hạnh rằng: “Chúng tôi bây
giờ đã lớn tuổi, xin trông cậy cả vào Minh Không”. Chính vì vậy, về sau này,
khi sắp viên tịch, biết mình sẽ hóa thân làm con của Sùng Hiền Hầu, tức Lý Thần
Tông sau này, Từ Đạo Hạnh mới cho gọi Minh Không đến mà dặn rằng: “Ta nay sắp
xuất thế, ở cái địa vị làm thầy người ta, bệnh trái kiếp sau quyết là khó tránh
nổi. Ta với người có duyên, nên cứu giúp nhau”. Nói xong, đưa cho Minh Không một
gói thuốc đã được niệm chú dặn rằng: 20 năm sau, nếu nghe quốc vương bị bệnh
thì lập tức đến chữa trị ngay. Như vậy có thể hiểu Nguyễn Minh Không là đệ tử của
Không Lộ hoặc Từ Đạo Hạnh.
Dẫu Minh Không là bạn hay là học trò của Từ Đạo Hạnh, thì có
một điều chắc chắn rằng, người chữa căn bệnh “hóa hổ” kỳ lạ của vua Lý Thần
Tông chỉ có một mình Minh Không.
Chuyện kể rằng, Từ Đạo Hạnh sau khi viên tịch đã đầu thai
làm con của Sùng Hiền hầu, em ruột vua Lý Nhân Tông, được đặt tên là Dương
Hoán. Khi Lý Nhân Tông qua đời, Dương Hoán được chọn làm con người kế vị, tức
vua Lý Thần Tông.
Lên ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 vua Lý Thần
Tông bệnh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày. Các danh y
tài giỏi từ khắp nơi trong cả nước được mời đến chữa bệnh nhưng bệnh của vua không
thuyên giảm. Triều đình phái sứ giả đi khắp nơi tìm người có thể chữa bệnh cho
đức vua.
Khi sứ giả đến vùng núi Tử Trầm, nơi Minh Không trụ trì, thấy
trẻ con hát câu đồng dao: “Tập tầm vông, có Nguyễn Minh Không chữa được mình rồng
thiên tử…” Sứ giả thấy lạ liền hỏi thăm và tìm được Nguyễn Minh Không, mời ông
vào triều chữa bệnh cho vua.
Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính
chèo thuyền, muốn dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái niêu nhỏ đem cho họ cùng
ăn, bảo họ rằng: “Anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn vậy”. Thế mà bọn
lính chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng không sao hết được niêu cơm.
Khi bọn lính ăn xong, Minh Không lại bảo: “Anh em hãy tạm ngủ
say một lát nữa đợi nước triều lên ta hãy bắt đầu ra đi”. Bọn lính đồng ý, đều
nằm ngủ say ở trên thuyền. Mới trong khoảnh khắc, thuyền đã trở về tới kinh đô,
bọn lính bơi chèo tỉnh dậy đều lấy làm lạ, phục tài của thiền sư Minh Không.
Khi sư Minh Không đến, thấy nhiều pháp sư khác cũng đang ở
trên điện làm phép chữa bệnh cho vua. Họ thấy Minh Không ăn mặc quê mùa nên
khinh thường không thèm chào hỏi. Sư Minh Không thấy vậy, lấy từ trong túi một
chiếc đinh lớn, dài hơn 5 tấc rồi đóng sâu vào cột, sau đó lên tiếng hỏi:
“Ai có thể nhổ cái đinh đó ra thì hãy nói chuyện chữa bệnh”. Minh
Không nói thế ba lần nhưng chẳng vị pháp sư nào dám làm.
Thấy vậy, Minh Không ung dung bước lại gần, lấy hai ngón tay
trái, cầm vào rồi nhẹ nhàng rút ra. Mọi người chứng kiến đều khiếp phục sức mạnh
phi thường của Minh Không nên nhường ông vào chữa bệnh cho vua.
Chuyện kể rằng, khi được đưa vào gặp vua Lý Thần Tông, Minh
Không lớn tiếng hỏi: “Kẻ đại trượng phu được tôn lên ngôi thiên tử, giàu có khắp
bốn bể, cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như vậy?” Vua nghe thấy vậy, rất run sợ,
không dám kêu gầm nữa.
Minh Không lại sai người lấy một vạc lớn đựng nước nấu sôi tới
cả trăm lần. Minh Không dùng tay không quấy lên khoảng bốn lần, rồi tắm vua
trong đó. Ngay sau đó, bệnh của vua đã bớt ngay. Ít lâu sau thì vua khỏi hẳn.
Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng của Minh Không và cũng
là để cảm tạ ơn cứu mạng của ông, vua Lý Thần Tông phong cho Minh Không là Quốc
sư, được đổi từ họ Nguyễn sang họ Lý của vua, cấp cho nhà ở, ban lộc mấy trăm hộ
và được miễn thuế má. Vì vậy, sau này người ta mới gọi sư Minh Không là Lý Quốc
sư, ý chỉ vị Quốc sư họ Lý.
Không chỉ nổi tiếng vì đã chữa bệnh cho vua, thiền sư Minh
Không còn là người có công xây dựng rất nhiều ngôi chùa trên nước Đại Việt. Sử
chép rằng, sau khi tu hành đắc đạo, sư Minh Không trở về quê nhà ở Ninh Bình, dựng
chùa Viên Quang, sau đó lại lập nhiều chùa ở Phả Lại (Bắc Ninh), Giao Thủy (Nam
Định), Vũ Thư (Thái Bình) để tu hành.
Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Minh Không đã dựng tới 500 ngôi
chùa trên đất Đại Việt. Ông qua đời vào năm 1141, niên hiệu Thái Bình thứ 22,
thọ 76 tuổi. Sau Thiền Sư Nguyễn Minh Không được tôn làm một trong các vị Thánh
Tứ Bất Tử cho đến khi Công Chúa Liễu Hạnh xuất hiện thì mới có sự thay đổi.