ĐI TÌM VẺ ĐẸP NGƯỜI THẦY TRONG THƠ CA

“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” truyền thống tôn sư trọng đạo ấy đã in sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam từ bao đời. Trong quá trình hình thành và phát triển nền giáo dục đất nước, dân tộc ta đã sinh ra nhiều người thầy vĩ đại: Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Tất Thành, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Như Mai, Văn Như Cương... Vì vậy, như một lẽ tự nhiên, hình ảnh người thầy đã trở thành đề tài xuyên suốt trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay và là nguồn cảm hứng lớn lao, bất tận của thơ ca.

Người thầy không chỉ là người truyền đạt tri thức, thắp lên ngọn lửa về ước mơ, niềm tin và hy vọng mà còn là tấm gương sáng cho bao thế hệ học trò noi theo. Trong mắt học trò, nhiều lúc thầy cô không chỉ là cha, là mẹ, là thầy mà là người nghệ sĩ trên bục giảng, lời dạy của thầy cũng chính là lời ru. Bài giảng của thầy đưa trò ngược về quá khứ, đi đến tương lai, mở ra những chân trời mới, một góc quê nhà.

Thầy không ru đủ nghìn câu

Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời

Tuổi thơ em có một thời

Ước mơ thì rộng như trời, ngàn năm

(Lời ru của thầy - Đoàn Vị Thượng)

Thường thơ viết về người thầy là những hồi ức trong trẻo, sáng đẹp, kỷ niệm bao giờ cũng lung linh, kỳ diệu. Và nơi ấy, có thầy giáo già, mái tóc bạc bao năm rồi, chưa hết lo toan. Có người đã ví người thầy như người đưa đò, hết chuyến này đến chuyến khác. Trong hoài niệm của mỗi người, nơi góc trái tim, chúng ta nhớ về thầy, cô cũ với bao tình cảm đậm đà, sâu nặng. Trong niềm tâm tưởng đó, người thầy trong thơ Trần Đăng Khoa lại mang những nét khác biệt:

Em nghe thầy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà

Mái chèo nghe vọng sông xa

Êm êm như tiếng của bà năm xưa

Nghe trăng thở động tàu dừa

Rào rào nghe đổ cơn mưa giữa trời.

…Đêm nay thầy ở đâu rồi

Nhớ thầy, em lại lặng ngồi em nghe.

(Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa)

Trần Đăng Khoa cũng có một bài thơ viết về người thầy giáo thương binh rất cảm động. Năm ấy, chiến tranh đến. Một buổi sáng bom dội, cây phượng già đổ ngổn ngang, ngôi trường thân yêu tốc mái, chiếc bảng đen lỗ chỗ dấu bom, người thầy cầm súng ra đi trở thành anh hùng trên trận mạc. Người thầy theo tiếng gọi non sông xếp lại trang giáo án lên đường. Chiến tranh đi qua, thầy lại trở về với nụ cười vẹn nguyên nhưng một bàn chân không còn nữa. Bàn chân thầy gửi lại nơi đâu, Khe Sanh, Tây Ninh, Đồng Tháp, học trò thơ trẻ không biết. Nhưng điều rõ ràng, sâu xa nhất, những chiều giá buốt, những đêm mưa dầm, dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo :

“In lên cổng trường những chiều giá buốt

In lên cổng trường những đêm mưa dầm

Dấu nạng hai bên như hai hang lỗ đáo

Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo Như nhận ra cái gì chưa hoàn hảo Của cả cuộc đời mình ... Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất Vẫn dắt chúng em đi trọn vẹn cuộc đời” (Bàn chân thầy giáo)

Trong những năm đạn lửa Trường Sơn, mùa thu - khai trường, vẫn nôn nao nhớ về tiếng trống, nhớ về người thầy, người cô. Trong cái ác liệt của đạn bom, vẫn nhớ, vẫn ghi: “Chúng em đi đánh giặc ở Trường Sơn Mang lời cô thắp sáng rừng lá đỏ .... Em nghĩ về cô như nghĩ về quê hương thân thuộc Chẳng thế nào nói hết được đâu…”

(Chẳng thể nào nói hết được đâu - Nguyễn Văn Thắng)

Khi người giáo viên bắt đầu dùng phấn viết những bài học mới lên chiếc bảng đen, những hạt bụi trắng xóa rơi xuống - đó là một hình ảnh quá đỗi đơn sơ, xảy ra hàng ngày và dễ dàng bắt gặp ở bất kỳ lớp học nào. Nhưng qua cảm nhận của tác giả, những hạt bụi ấy trở thành một hình ảnh mang tính ước lệ và có hồn. Nó không chỉ là những hạt nhỏ li ti rơi xuống bục giảng hay vương lại trên tóc mỗi lần người thầy viết bài, mà đã trở thành một biểu tượng in sâu trong tâm trí bao thế hệ học trò. Hạt bụi rơi mãi không ngừng một cách lặng lẽ đến mức chẳng ai nhận ra chúng đang hòa quyện và nô đùa - như chính những người học trò nghịch ngợm, vô tư. Khi chiếc bảng đen đầy ắp những kiến thức, những dòng chữ thì cũng là lúc dưới bục giảng, trên mái tóc người thầy vương thêm nhiều hạt bụi. Được lao động, được cống hiến cho sự nghiệp trồng người là niềm vui, là niềm hạnh phúc trong mỗi thầy cô giáo. Tuy vẫn còn đó đôi điều đáng tiếc, khi một vài cánh én mệt mỏi lạc đàn song không hề ảnh hưởng đến mùa xuân của nhân loại.

Cơn gió vô tình thổi mạnh sáng nay

Con bỗng thấy tóc thầy bạc trắng

Cứ tự nhủ rằng đó là bụi phấn

Mà sao lòng xao xuyến mãi không nguôi

Bao năm rồi ? Đã bao năm rồi hở ?

Thầy ơi ...”

Không cầu kì với những cấu trúc thơ, không dụng công với những hình ảnh, biểu tượng lạ lẫm. Người thầy trong bài thơ này bình dị hiện lên bằng một nét vẽ duy nhất: giọng đọc thơ. Giọng đọc ấy như một lời sáng thế, mở ra những chân trời mới, truyền mạch sống cho nắng ngoài vườn, cây quanh nhà, nghe thấu tiếng mái chèo tần tảo ngoài sông xa… Nhưng độc đáo nhất không phải chỉ dừng ở những thanh âm vi lượng ấy. Câu thơ của thày đọc hay chính giọng đọc thơ của thày chạm đến đáy lòng để tha thiết, để những thế hệ học trò nghe được cả những vô thanh chứ đâu chỉ có hữu thanh: “Nghe trăng thở động tàu dừa”. Phải là người thày có chất giọng trời phú, với cái tâm sáng với nghề mới động lòng trời đất đến thế. Bởi thế mà câu thơ thày đọc hay nghệ thuật “đọc thơ” ấy cũng là cách truyền thụ đã tưới mát tâm hồn ấu thơ như cơn mưa đến với đồng đất ngày nắng hạn làm xanh tươi tâm hồn thần đồng thơ ấy đến muôn đời.

Và suốt dọc thời bình, những người thầy vẫn miệt mài làm người ươm hạt, người đưa đò thầm lặng. Bao nhiêu thế hệ học trò đã cặp bến bờ tri thức, mang theo một lòng tri ân vô hạn. Riêng người thầy vẫn tự nhủ con đường mình đang đi vẫn còn xa, xa lắm:

“Con đò mộc - mái đầu sương

Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày

Khúc sông ấy vẫn còn đây

Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông...

(Người lái đò - Thảo Nguyên).

Hình ảnh người thầy trong thơ không chỉ có những khúc vui mà cả những đắng cay, cơ cực, không chỉ được thể hiện trong cách cảm của học trò mà còn bằng cách tự nhận thức với bản lĩnh riêng của mình. Nhập vai những cô giáo “cắm bản” vùng cao một thời, nhà thơ Lê Đình Cánh viết:

Em đi nón chạm mây trời

Rừng sâu “bán chữ” cất lời ngân nga

Tiếng rao xao xác lau già

Non cao đôi mảnh trăng tà ngậm sương

(Em đi - Lê Đình Cánh)

Những cô giáo lặng lẽ vượt núi, băng rừng đem con chữ về cho học trò miền núi cứ lặng lẽ cống hiến như một lẽ sống ở đời. Sự âm thầm ấy kì diệu đến mức chỉ có đất trời và khung cảnh miền sơn cước là những chứng nhân duy nhất. Tiếng “rao” “bán chữ” mời gọi những đôi mắt trẻ thơ đến với trường, với lớp như tiếng gió thôi xao xác ngọn laugià hiu hắt. Những năm đất nước còn khó khăn, mọi chính sách ưu tiên chưa có điều kiện được áp dụng, đường xá, hạ tầng các bản làng còn hạn chế nhưng những người giáo viên quyết đem con chữ đến với bản làng bằng những cống hiến như thế.

Người thầy sẽ mãi là hình tượng đẹp trong thơ ca, bởi lẽ ai đã từng đi qua những năm tháng học trò cũng đều muốn đọc lên, hát lên những bài thơ, những lời ca của lòng biết ơn chân thành: “Dẫu đếm hết sao trời đêm nay, dẫu đếm hết lá mùa thu rơi; nhưng ngàn năm, làm sao em đếm hết công ơn người thầy” (Người thầy - Nguyễn Nhất Huy).

Lật giở từng trang viết, ta bắt gặp các trang thơ, trang văn, các bản nhạc chứa chan xúc cảm. Giữa bộn bề lo toan, suy ngẫm thường nhật của người thầy, người cô, chợt có phút giây lặng mình trong rất khẽ câu thơ:

Mỗi nghề có một lời ru

Dở hay thầy cũng chọn ru khúc này

Lời ru của gió màu mây

Con sông của mẹ đường cày của cha…”

“Có một nghề bụi phấn lấm đầy tay

Người ta bảo là nghề trong sạch nhất

Có một nghề không trồng cây trên đất

Lại nở cho đời những đóa hoa thơm…”

Từ trang giấy tinh khôi vang vọng bản nhạc da diết, sâu lắng với vô vàn cung bậc trầm bổng, xoáy vào lòng người những dòng suy tưởng đa chiều: “Trên những nẻo đường của tổ quốc xanh tươi, có những loài hoa thơm đậm đà sắc hương, có những bài ca nghe rạo rực lòng người, bài ca ấy loài hoa ấy đẹp như em, người giáo viên nhân dân”; Bên ánh đèn khuya em đã thức bao đêm, dưới chiến hào dân quân nhiều trận có em. Có những cuộc chia tay dạt dào kỷ niệm; người cầm bút, người cầm súng, người đi xa hằng nhớ ghi trong tim”

Có lẽ những hình ảnh về người giáo viên đã đi vào thơ nhạc không những là tiếng lòng của biết bao thế hệ mà còn là những mẫu hình về lẽ sống, về lí tưởng sống mà mỗi người đều hướng đến để thanh lọc tâm hồn mình. Bằng tất cả tình cảm trân trọng dành cho nhà giáo và nghề giáo, với truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo”, ngọn lửa tình yêu cuộc sống, tình yêu con người, tình yêu nghề giáo sẽ mãi mãi rực sáng trong tâm trí chúng ta; thúc giục chúng ta phấn đấu xây dựng một xã hội công bằng, tốt đẹp.

Qua sự điểm xuyết từ một số bài thơ tiêu biểu ở các các giai đoạn của văn học Việt Nam, hình ảnh người thầy và mái trường hiện lên càng thêm sinh động. Thầy cô yêu nghề, yêu trò hơn; các em học sinh cũng sẽ yêu thêm mái trường và biết kính trọng những người thầy đã từng không quản ngày đêm dạy dỗ nên người chính là thông điệp ngàn đời của thi ca vậy!

“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”

Link nội dung: https://cdspvinhlong.edu.vn/ve-dep-tho-ca-a25271.html