(Ngày ngày viết chữ) Cổ mỹ từ là loạt bài tập hợp những từ có sắc thái cổ nom rất đẹp trong tiếng Việt. Lưu ý, “Cổ mỹ từ” chỉ là một tên gọi mà Ngày ngày viết chữ đặt cho những từ này, không phải khái niệm “từ cổ” đúng nghĩa của ngôn ngữ học.
Tất cả các cổ mỹ từ mà Ngày ngày viết chữ sưu tầm, lý giải đều được cập nhật tại chuyên mục này theo trật tự ABC. Quý bạn đọc vui lòng không sao chép, không sử dụng lại khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Ngày ngày viết chữ.
Bài này tập hợp các Cổ mỹ từ theo trật tự từ P đến Y. Còn đây là đường dẫn dẫn đến các bài viết theo trật tự:
Từ A đến G | Từ H đến O
Cho nên cách dùng “phong thụ” hoặc “phong mộc” nghĩa đen là cây bị gió lay, còn nghĩa bóng, theo Từ điển Nguyễn Quốc Hùng là “chỉ cha mẹ già yếu mà con cái không kịp về phụng dưỡng”. Từ điển Đào Duy Anh cũng giảng tương tự, rằng “con cái nghĩ đến báo đáp cha mẹ, mà cha mẹ đã chết rồi”.
Về câu “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng”, hiện nay phạm vi sử dụng đã rộng hơn, thường dùng trong các trường hợp mình thì muốn thôi, muốn được yên nhưng người khác (trong mối quan hệ nào đó với mình) thì không muốn thế, không để cho mình được yên.
(*) Thầy Tử Lộ, tức Trọng Do (542-480 TCN), là người đất Biện, nước Lỗ thời Xuân Thu. Ông là học trò của Khổng Tử và là một người con rất hiếu thảo.
《Khi ông Trương Cán mới thi đậu, có vào yết kiến ông Vương Đình Tướng là một bậc danh sĩ đời bấy giờ. Ông Vương Đình Tướng bảo rằng: “Hôm trước, trời vừa mưa xong, tôi đi qua phố, có trông thấy một người đi đôi giày mới, đi từ phố nọ đến phố kia, rón rén tìm lối mà bước, chỉ sợ lấm giày; sau quanh vào trong thành, bùn lầy nhiều quá, người ấy lỡ chân giẫm phải đống bùn, từ bấy giờ cứ bước tràn đi, chẳng tiếc gì đến đôi giày nữa. Xem thế mới biết người ta nên giữ gìn tính hạnh ngay từ lúc đầu, nếu đã lỡ một lần, thì dần dần thành ra người càn rỡ”.
Ông Trương Cán nghe lời dạy ấy, lấy làm cảm phục, mà tôn làm thầy.
Ta nay đi học, cũng nên lấy điều ấy làm răn. Dẫu việc nhỏ mọn thế nào, ta cũng phải cẩn thận giữ gìn, nếu không thì chỉ có lần đầu là khó, rồi hễ đã quen một lần là quen mãi. Bởi thế cho nên cổ nhân lấy sự giữ mình làm cẩn trọng lắm.》
“Du Hội An phùng Vị thành ca giả” của Cao Bá Quát:“Quản huyền kim dạ nguyệt,Hương quốc kỷ thu phong.”Hai câu này, Lý Lãng Nhân dịch là:“Đêm trăng đàn sáo quyện nhau,Quê xưa cách mấy thu nào nhớ chăng.”
★ Quần phương ★
“Quần phương”, chữ Hán viết là 群芳 (hoặc 羣芳), trong đó:- “Quần” là nhóm, tốp, đám, cụm, chỉ số đông, như quần chúng, quần cư, quần đảo,…- “Phương” là hoa cỏ, mùi thơm của hoa cỏ, dùng để chỉ hoa, hoặc vật gì có hương thơm, cũng dùng để tỉ dụ đức hạnh danh dự.
“Quần phương” là từ dùng để gọi chung các thứ hoa. Từ này xưa dùng rất nhiều trong thi ca. Dưới đây là một số trích diễm:
(1) Hàn hương điểm tuyết báo xuân tri,Tiên chiếm quần phương đệ nhất chi.寒香點雪報春知,先占群芳第一枝。(Hương nhẹ, điểm nụ hoa, báo mùa xuân sắp về,Đây là cành nở sớm nhất trong các loài hoa.)~ Bài “Hoạ giải nguyên Minh Châu Trần mỹ tự Trinh Cáp xuân nhật vịnh mai nguyên vận” của Nguyễn Phúc Ưng Bình. Bài này nói về hoa mai.
(2) Hoa thần nhược phẩm quần phương phổ,Vị hứa hoàng hàn chiếm bảng tiên.花神若品群芳譜,未許黃寒占榜先。(Thần hoa nếu xếp thứ bậc cho các loài hoa,Chưa chắc cho hoa mai xếp đầu bảng.)~ Bài “Hoạ tham tán đại thần hành dinh thưởng cúc thập vịnh hựu phú thập vịnh kỳ 03” của Cao Bá Quát. Bài này nói về hoa cúc.
(3) Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.主人與物渾無競,花向群芳出一頭。(Người với hoa hồn nhiên không hơn thua,Trong các loài hoa thì cúc vượt trội hơn.)~ Bài “Cúc hoa kỳ 5” của Huyền Quang thiền sư. Bài này cũng nói về hoa cúc.
(4) Chi lan độc chiếm quần phương phổ,Hoa Hải cao tăng diệc thiện tài.芝蘭獨占群芳譜,花海高僧亦善栽。(Trong các loài hoa, hoa lan nổi trội nhất,Khen cao tăng Hoa Hải thật khéo trồng.)~ Bài “Đắc Hoa Hải tình tăng, tức ông Hiệu Thuyết, lai giản hỷ phục nguyên vận” của Nguyễn Phúc Ưng Bình. Bài này thì nói về hoa lan.
(5) Hoa khai mỗi hướng hoàng hôn hậu,Bất cộng quần phương đấu hiểu trang.花開每向黃昏後,不共群芳鬥曉粧。(Hoa chỉ nở khi đêm đến,Không như các loài hoa khác đua nở lúc sáng sớm.)~ Bài “Quỳnh hoa, thứ Hải Bình nguyên vận kỳ 1” cũng của Nguyễn Phúc Ưng Bình. Bài này nói về hoa quỳnh.
Dịch thơ là:“Hun người nắng mới như say,Lâu đài ấm áp nhuốm đầy dương quang.”(Dẫn theo “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ, Trúc Khê dịch, NXB Hội Nhà Văn, 2017.)
Còn một bài thơ nữa cũng rất hay có dùng từ “sơ tình” là bài “Cao tùng” của Lý Thương Ẩn (một nhà thơ Trung Quốc sống vào thời Vãn Đường), thơ viết:
“Khách tán sơ tình hậu,Tăng lai bất ngữ thì.”
Chữ Hán là:客散初晴後,僧來不語時。
Dịch đại ý là khách về hết lúc trời rạng sáng, rồi nhà sư đến chơi nhưng không nói gì.Mặc dù thường thì album Cổ mỹ từ chỉ trích văn học Việt Nam, nhưng vì thơ của Lý Thương Ẩn hay nên mình cũng mạn phép trích lại để mọi người cùng đọc ha.
Nói thêm một chút về từ Diệm - 艶 (cũng viết là 艷 hoặc vài cách viết khác nữa), từ này ngày nay ta quen đọc là “diễm” (trong “diễm lệ”, “kiều diễm”,…). “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh giảng “diệm dương” là “trời mùa xuân đầm ấm đẹp đẽ”.
Bài “Hoạ Hoài Trân thị hạ thủ vãn diểu nguyên vận” của Nguyễn Phúc Ưng Bình có câu:Mạc hận tầm phương kim dĩ vãn,Huân phong hương mãn lục trì âm.莫恨尋芳今已晚,薰風香滿綠池陰。Ðừng lo hôm nay đi tìm ngắm cảnh đẹp đã muộn,Gió thổi mùi thơm khắp cả ao xanh mát.
Bài “Bính Tuất nguyên nhật ngẫu thành [Thị nhật lập xuân]” của Lê Khắc Cẩn có câu:Tuý lai nghĩ tác tầm phương khứ,Tuỳ hạc vi ngâm quá tiểu kiều.醉來擬作尋芳去,隨鶴微吟過小橋。Say rồi thì muốn tìm một nơi có cảnh đẹp mà bước ra,Để nghe tiếng đàn hạc nhẹ nhàng bay qua cầu.
Hy vọng mỗi chúng ta dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể tìm thấy hoa thơm, cảnh đẹp cho riêng mình và ngay trong lòng mình.
“Cẩm tú” (錦繡) là gấm thêu, gấm vóc, ở đây chỉ người học trò đã đỗ đạt thành danh. “Quyết ném thanh khâm sang cẩm tú” bày tỏ cái chí của Cao Bá Quát, cái chí từ “thanh khâm” quyết thành “cẩm tú”.
★ Thần giao ★
“Thần giao”, chữ Hán là 神交, trong đó:
- “Thần” ở đây chỉ tinh thần, cái phần sáng suốt, tinh anh và vô hình của con người (theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức);- “Giao” là chơi với nhau, như “viễn giao” (遠交) là chơi với bạn ở xa, “quảng giao” (廣交) là quen biết rộng.
“Thần giao”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là “tinh thần giao tiếp với nhau, bạn bè về tinh thần”. Từ này được dùng để chỉ việc bị thu hút về mặt tinh thần bởi một người bạn mà mình chưa từng gặp, tuy chưa gặp (hoặc vừa gặp) mà đã thân, đã tâm đầu ý hợp. Ngày nay ta hay dùng từ này trong cụm “thần giao cách cảm”.
Bài Tặng Hoạch Trạch Nhữ Tốn Trai của Phan Huy Ích có câu:Cao sơn lưu thuỷ hữu tri âm,Lưỡng địa thần giao ký ý thâm.高山流水有知音,兩地神交寄意深。(Khúc cao sơn lưu thuỷ đã có bạn tri âm,Bạn thần giao ở hai nơi gửi tình cảm sâu sắc.)
Một trường hợp gần với “thiều hoa” - có lẽ quen thuộc với chúng ta hơn - là từ “thiều quang” (韶光), trong câu Kiều trứ danh:“Ngày xuân con én đưa thoi,Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
“Thiều quang” cũng có nghĩa tương tự “thiều hoa”, đều chỉ ánh sáng tươi đẹp, ngày xuân rực rỡ, tỉ dụ tuổi trẻ đẹp đẽ.
“Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều có câu:“Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ,Đoá hải đường thức ngủ xuân tiêu.”Nghĩa là cành hoa thược dược say mơ vì được cơn mưa lành và đoá hải đường (ý chỉ người cung nữ đẹp) ngủ say trong đêm xuân.
★ Thư song ★
“Thư song”, chữ Hán viết là 書窗, trong đó:
- Thư là sách, như thư viện (書院) là nhà chứa sách, đồ thư (圖書) là sách vở tài liệu nói chung. Ngoài ra, chữ thư này còn có nghĩa là viết, ghi chép như thư pháp (書法) hoặc giấy viết gửi tin cho người khác như thư tín (書信).- Song là cửa sổ, như bách diệp song (百葉窗) là cửa chớp, song sa (窗紗) là rèm che cửa sổ.
“Thư song” là cửa sổ phòng đọc sách, hoán dụ chỉ phòng đọc, phòng học. Dưới đây là một số câu thơ có dùng từ “thư song”:
1. Chàng Kim từ lại thư song,Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
2. Thư song đăng hoả túc tiêu cần,Cách điệu thanh cao ý tứ tân.書窗燈火夙霄勤,格調清高意思新。Tạm dịch:Phòng đọc sớm hôm đèn chong mãi,Phong cách thanh cao, ý mới thay.(Ngự chế văn nhân thi, Lê Thánh Tông)
3. Sầu bệnh cánh kiêm thi khách viễn,Thư song bút nghiễn cách niên nhàn.愁病更兼詩客遠,書窗筆硯隔年閒。Rầu vì bệnh mà khách thơ lại xa cách,Bút nghiên trong phòng đọc đã để không.Tạm dịch:Dạ sầu thân bệnh khách thơ xa,Phòng đọc bút nghiên chẳng kể là.(Cừ Khê thảo đường kỳ 2, Nguyễn Phúc Miên Thẩm)
Ngoài “thư song”, Nho gia còn có nhiều từ chỉ phòng đọc sách, phòng học, như “thư hiên” (書軒), “thư trai” (書齋), v.v..
★ Thương đài ★
“Thương đài”, chữ Hán viết là 蒼苔, trong đó:
- “Thương” là màu xanh, màu xanh thẫm, như thương hải (蒼海) là biển xanh (trong thành ngữ “thương hải tang điền” (biển xanh hoá ruộng dâu).- “Đài” là cây rêu, có câu “cổn thạch bất sinh đài” (滾石不生苔) nghĩa là hòn đá lăn thì không mọc rêu. “Đài bi” (苔碑) là cái bia có rêu phủ, “đài giai” (苔階) là cái thềm có rêu phủ, “đài phong” (苔封) là rêu phủ kín, “đài sắc” (苔色) là sắc xanh của rêu, “đài văn” (苔紋) là những dấu rêu thành vằn vằn trên đá hoặc đất.
“Thương đài” nghĩa là rêu xanh, rêu xanh thẫm. Bài ca trù Vịnh Hồ Tây của Nguyễn Công Trứ có câu:Mà cỏ hoa man mác dấu thương đài,Để khách rượu làng thơ ngơ ngẩn.
Trước hai câu này là câu “Hỏi năm nao vũ quán điếu đài”. “Vũ quán” (舞館) là quán múa hát, “điếu đài” (釣臺) là đài câu cá. “Đài” ở đây nghĩa là toà kiến trúc cao, khác với chữ “đài” trong “thương đài”.
★ Tịch chiếu ★
“Tịch chiếu”, từ Hán Việt, chữ Hán viết là 夕照, trong đó:- Tịch là buổi chiều, cũng dùng chỉ buổi tối, đêm;- Chiếu là ánh nắng (dùng làm động từ thì có nghĩa là soi, rọi).
“Tịch chiếu” nghĩa là nắng ban chiều, ánh chiều tà, ánh trời chiều soi xuống.Bài “Đề đạo nhân vân thuỷ cư kỳ 16” của Lê Thánh Tông có câu:Đài tạ y hi tịch chiếu thiên,Hàn vân xuất tụ thuý miên miên.臺榭依稀夕照天,寒雲出岫翠綿綿。(Nhà xây trên đài thấp thoáng dưới ánh chiều tà,Mây lạnh trôi ra từ dãy núi xanh xa tít.)
Bài “Lư khê nhàn điếu” của Mạc Thiên Tích có câu:Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu,Lư khê yên lý xuất ngư đăng.遠遠滄浪含夕照,鱸溪煙裏出漁燈。(Bờ bão xa xăm đậm bóng ngày,Khe Lư mù toả ló đèn chài.)*___________* Bản dịch trích từ “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, NXB Khoa học Xã hội, 2021.
★ Tịch huân ★
“Tịch huân”, chữ Hán viết là 夕曛, trong đó:- Tịch là buổi chiều, cũng dùng chỉ buổi tối, đêm;- Huân cũng có nghĩa là buổi chiều, buổi hoàng hôn, hoặc ánh sáng còn sót lại của mặt trời vừa lặn.
Từ điển Thiều Chửu giảng “tịch huân” là ánh sáng thừa của mặt trời, mặt trời đã lặn còn chút ánh sáng tóe ra, cũng có thể gọi là “tà huân” (斜曛) và có một cách dùng giản dị, quen thuộc hơn là “nắng quái”.
Bài Quá Hưng Đạo Vương từ của Lê Thánh Tông có câu:Trùng lâu thuý vũ nhân hà tại,Duy kiến hoang sơn đối tịch huân.重樓翠宇人何在,惟見荒山對夕曛。(Lầu cao gác biếc còn đây mà người ở đâu,Chỉ thấy ngọn núi hoang đứng trong nắng chiều vương lại.)
Về từ “nắng quái”, dân gian có câu:Gái thương chồng đương đông buổi chợ,Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
Thơ Chế Lan Viên (bài “Chia”) cũng dùng hình ảnh “nắng quái” rất hay là:Tia nắng ấm gần nhauXa nhau thành nắng quáiChia làm gì nắng ấyĐể xa rồi em đau.
★ Tiêu nhiên ★
“Tiêu nhiên”, chữ Hán viết là 蕭然, trong đó:
- Tiêu là vắng vẻ, quạnh hiu, buồn thảm, hoang vắng, xơ xác, ảm đạm, thê lương. Đây cũng là chữ “tiêu” trong từ tiêu điều (蕭條) mà chúng ta đã quen thuộc và cũng là chữ “tiêu” trong từ tiêu tao (蕭騷 - buồn bã, sầu lo) mà tụi mình đã giới thiệu với các bạn cách đây ít lâu.- Nhiên là như thế, như vậy. Quả nhiên (果然) là thực đúng như vậy, hồn nhiên (渾然) là cứ như thế, như nhau cả, ta thường hiểu là (trẻ con) vô tư, không phân biệt gì.
“Tiêu nhiên” nghĩa là vắng vẻ như thế, quạnh hiu, buồn thảm như thế, nói chung chỉ vẻ hoang vắng, buồn thảm, xác xơ.
Huyền Quang thiền sư (nhà Trần) có bài Cúc hoa (kỳ tam) rất hay, trong có dùng từ “tiêu nhiên”, rằng:
Vong thân, vong thế, dĩ đô vong,Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
忘身忘世已都忘,坐久蕭然一榻涼。歲晚山中無歷日,菊花開處即重陽。
Tạm dịch:Quên thân quên đời quên vấn vương,Ngồi lâu hiu quạnh lạnh cả giường.Cuối năm trong núi nào có lịch,Thấy hoa cúc nở biết trùng dương.
★ Tiêu tao ★
“Tiêu tao”, chữ Hán viết là 蕭騷, Đại tự điển Hán Việt của Trần Văn Chánh giảng:
- Tiêu là quạnh hiu buồn thảm, hoang vắng, xơ xác, ảm đạm, thê lương. Đây cũng là chữ “tiêu” trong từ tiêu điều (蕭條) mà chúng ta đã quen thuộc.- Tao là buồn rầu, buồn lo, âu lo, lo lắng.
“Tiêu tao” nghĩa chung là buồn bã, buồn rầu, sầu lo, ảm đạm, não nùng, nói chung là một sắc thái buồn bã thay, sầu não thay. Thơ ca xưa dùng “tiêu tao” khá nhiều, dưới đây là một số câu thơ có dùng từ này để các bạn tham khảo:
1. Thính vũ (Nghe mưa) - Nguyễn Trãi:Tiêu tao kinh khách chẩm,Điểm trích sổ tàn canh.蕭騷驚客枕,點滴數殘更。
Đào Duy Anh dịch thơ:Não nùng rung gối khách,Thánh thót mấy canh dư.
2. Truyện Kiều - Nguyễn Du:Lựa chi những bậc tiêu tao,Dột lòng mình cũng nao nao lòng người.Bậc tiêu tao ở đây chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não. Có bản viết là “So chi những bậc tiêu tao”, ở đây dẫn theo bản của Nguyễn Thạch Giang hiệu đính (2017).
3. Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều:Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.Muốn đem ca tiếu giải phiền,Cười nên tiếng khóc, hát lên giọng sầu.“Bóng thỏ” là bóng trăng, “hoa đèn” là đầu sợi bấc đèn đã ch:áy và bị nung nóng đỏ trông như đoá hoa nhỏ.
★ Tố giao ★
“Tố giao”, chữ Hán viết là 素交, trong đó:- Tố ban đầu nghĩa là lụa trắng, sắc trắng, sau được dùng thêm nghĩa là vốn có, xưa nay đã có, như “tố chí” (素志), “tố nguyện” (素願) là chí nguyện xưa nay của mình.- Giao là qua lại với nhau, như “giao du” (交遊) là bạn bè qua lại chơi chung với nhau.
“Tố giao”, Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng là bạn bè vốn giao du với nhau đã lâu. Thơ Đỗ Phủ có câu:Tố giao linh lạc tận,Bạch thủ lệ song thuỳ.素交零落盡,白首淚雙垂。Nghĩa là bạn cũ nay xa cách cả, đầu bạc mà hai dòng lệ tuôn.
Gần nghĩa với “tố giao” còn có “tố tri” (素知) và “tố thức” (素識), đều mang nghĩa là bạn cũ, quen biết đã lâu.
★ Triêu dương ★
“Triêu dương”, chữ Hán là 朝陽, trong đó:
- Triêu là buổi mai, buổi sớm, đối lại với tịch (夕) là buổi chiều, buổi tối.- Dương nghĩa là mặt trời.
“Triêu dương” là mặt trời ban mai, mặt trời vừa mọc. Có thành ngữ “triêu dương phượng minh” (朝陽鳳鳴) nghĩa là mặt trời buổi ban mai có tiếng chim phượng hót, ý nói “cảnh tượng đời thái bình” (theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh).
Đồng nghĩa với “triêu dương” là “húc nhật” (旭日), còn đối lại với “triêu dương” là “tịch dương” (夕陽), “tà dương” (斜陽) hoặc “tàn dương” (殘陽), đều nghĩa là mặt trời xế về tây, mặt trời gần lặn.
Bài “Bính Dần xuân nhật ngẫu ngâm” của Nguyễn Phúc Ưng Bình có câu:
Kỷ hồi tịch chiếu kỷ triêu dương,Khước lão do hàm bút mặc trường.幾回夕炤幾朝陽,卻老猶酣筆墨場。Hết sớm lại chiều ngày nhẹ qua,Vui say bút mực chẳng kể già.
Tác phẩm “Sãi Vãi” (tức là ông Sãi và bà Vãi) này có thể nói là rất đặc sắc, mọi người có thể tìm trên thivien.net để đọc thử. Câu mà Bửu Kế trích dẫn ở trên, trọn vẹn hơn là:“Muốn kinh bang chưa gặp vận hanh thông,Muốn tế thế hãy còn thời truân kiển.”
“Túc duyên” nói chung là mối ràng buộc đã định sẵn, mối ràng buộc có từ kiếp trước giữa người với người. “Đại Nam quốc sử diễn ca” của Lê Ngô Cát - Đặng Huy Trứ có câu: “Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên”. “Đắc cố nhân thư chiêu Đỗ Thiện Trường tiểu chước dạ thoại kỳ 1” của Đoàn Huyên có câu “Túc duyên vô phụ tất đầu lao”, nghĩa là “Duyên xưa chẳng phụ tình gắn bó keo sơn”.
★ Uyên áo ★
“Uyên áo”, chữ Hán viết là 淵奧, trong đó:
- “Uyên” là cái vực sâu, chỗ nước sâu, là chữ “uyên” trong uyên bác (淵博), uyên nho (淵儒), uyên thâm (淵深).- “Áo” nghĩa là chỗ sâu kín nhất trong nhà, mở rộng chỉ chỗ sâu kín, sâu xa, khó hiểu, hoặc ý tứ hay. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giảng “phàm sự gì tinh thần sâu xa khó hiểu đều gọi là áo”. (Xin phân biệt với chữ “áo - 襖” trong “áo quần”.)
Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh giảng “Uyên là vực sâu, áo là phần sâu nhất trong nhà. Chỉ nghĩa lý ý vị thâm trầm, thường nói là uyên áo”. Nói chung, uyên áo chỉ những sự việc hoặc tâm tư, suy nghĩ sâu kín, có ý nghĩa sâu xa, khó hiểu.
★ Vi quang ★
“Vi quang”, chữ Hán là 微光, trong đó:
- “Vi” là nhỏ bé, nhạt, nhẹ, như “vi phong 微風” là gió nhẹ, “bạch ngọc vi hà 白玉微瑕” là viên ngọc trắng có tì vết nhỏ, chỉ người hoặc việc tốt đẹp nhưng có khiếm khuyết nhỏ. (Ngoài ra, chữ “vi” này còn có nghĩa là mầu nhiệm hoặc ẩn giấu.)
- “Quang” là ánh sáng, cũng có nghĩa là vẻ vang, rực rỡ, như “nhật quang 日光” là ánh sáng mặt trời, “quang huy 光輝” là chói lọi, rực rỡ.
“Vi quang” là ánh sáng nhạt, ánh sáng mờ mờ, ánh sáng le lói.
Bài Cửu toạ của Cao Bá Quát có câu:
Khinh khinh vân ám độ,Đạm đạm nguyệt vi quang.
輕輕雲暗度,淡淡月微光。
Tạm dịch:Bảng lảng mây giăng lối,Mờ mờ ánh trăng soi.
Bài Bùi viên biệt thự hỉ thành của Nguyễn Khuyến có câu:
Hữu thời thướng minh nguyệt,Vi quang dao ngã doanh.
有時上明月,微光搖我楹。
Tạm dịch:Mỗi khi trăng tỏ lên cao,Ánh trăng nhàn nhạt soi vào nhà ta.
“Xuân huyên” nói chung là chỉ cha mẹ. Truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu có câu:“Tiên rằng: Thương cội xuân huyên,Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.”
Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du dùng “xuân huyên” hai lần như sau:
- “Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.”
- “Xuân huyên lo sợ biết bao,Quá ra khi đến thế nào mà hay!”
Trần Bích San có loạt bài “Vịnh Kiều”, trong đó Đệ ngũ hồi dùng từ “xuân huyên” như sau:“Hai khóm xuân huyên bóng đã tà,Trăm điều bối rối một mình ta.”
Ngoài “xuân huyên” (“xuân đường” và “huyên đường”), còn một cặp từ nữa dùng để chỉ cha mẹ của mình cũng rất hay là “gia nghiêm” và “gia từ”.
“Gia nghiêm”, chữ Hán viết là 家嚴, nghĩa là người nghiêm khắc trong nhà tôi, tức là cha tôi. Chữ “nghiêm” nghĩa là có uy thế đáng sợ, tôn kính, gắt gao,… Người xưa thường dùng “nghiêm” để chỉ người cha, như “nghiêm phụ”, “nghiêm quân”, “nghiêm đường” đều là từ để chỉ cha.
“Gia từ”, chữ Hán viết là 家慈, nghĩa là người giàu lòng thương yêu trong nhà tôi, tức là mẹ tôi. Chữ “từ” nghĩa là hiền, lành, lòng thương yêu, người trên yêu thương người dưới thì gọi là “từ”. Người xưa thường dùng “từ” để chỉ mẹ, thường gặp nhất trong “từ mẫu”, “tiên từ” (người mẹ đã mất).
Bài Chi Thăng Bình ký đồng song chư hữu (Đi Thăng Bình, gửi các bạn đồng môn) cũng của Trần Bích San có câu:“Gia nghiêm thả viễn hoạn,Gia từ tương lão chí.”(家嚴且遠宦,家慈將老至.)Nghĩa là:Cha tôi làm quan ở xa,Mẹ tôi đến tuổi già yếu.
Về từ “nghiêm quân”, trong “Nữ tú tài”, một truyện thơ khuyết danh Việt Nam có câu:“Đặt tên là ả Phi Nga,Huyên đường sớm vắng, còn nhà nghiêm quân.”Tức là mẹ mất sớm, nhà chỉ còn cha.
Về từ “nghiêm đường”, trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có câu:“Vốn người huyện Tích châu Thường,Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.”“Nghiêm đường” ở đây là Thúc ông, cha của Thúc Sinh.
(*) Chữ 諼 ở đây cùng nghĩa với chữ 萱.
Huỳnh Thúc Kháng dịch: “Đàn anh phái tân học, bỗng mất một tay, muôn dặm mịt mù, bạn trẻ trông sau rền rĩ khóc;Đời thọ với danh thơm, khó toàn hai ngả, một quan nho nhỏ, mẹ già dựa cửa xót xa đau.”
- Bài “Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang (Tiên vân tình nhật tuyết hoa thiên)”, Nguyễn Phi Khanh:Tiên vân tình nhật tuyết hoa thiên,Yên cảnh tam xuân thắng liễu xuyên.鮮雲晴日雪花天,煙景三春勝柳川。(Mây tươi sáng, trời quang tạnh, một bầu hoa tuyết,Cảnh sắc ba xuân hơn hẳn con sông rặng liễu.)
- Bài “Đề đạo nhân vân thuỷ cư kỳ 15”, Lê Thánh Tông:Hà lộ tề phi thu thuỷ thanh,Nhất thiên yên cảnh hữu thuỳ tranh.霞鷺齊飛秋水清,一天煙景有誰爭。Ráng chiều và cò cùng bay, nước mùa thu trong vắt,Đầy trời cảnh sương khói chẳng ai giành.
- Bài “Khai song”, Nguyễn Du:Môn tiền yên cảnh cận như hà?Nhàn nhật khai song sinh ý đa.門前煙景近如何,閒日開窗生意多。(Phong cảnh trước nhà, nay như thế nào rồi?Nhàn rỗi, mở cửa sổ ra xem, thấy mọi vật vẫn vui tươi.)
- Bài “Thu dạ kỳ 2”, Nguyễn Du:Thiên lý giang sơn tần trướng vọng,Tứ thì yên cảnh độc trầm ngâm.千里江山頻悵望,四時煙景獨沉吟。(Non sông ngàn dặm cứ nhìn là thấy buồn,Phong cảnh bốn mùa, riêng mình ngậm ngùi.)
- Bài “Sơn Thủy độ”, Nguyễn Văn Siêu:Tà dương cách lãnh tận,Yên cảnh dữ khê hồn.斜陽隔嶺盡,煙景與溪渾。(Bóng mặt trời tà đã khuất núi rồi.Cảnh mây khói cùng lẫn lộn giữa khe.)
Trên đây là các Cổ mỹ từ theo trật tự từ P đến Y. Còn đây là đường dẫn dẫn đến các bài viết theo trật tự:
Từ A đến G | Từ H đến O